1. Lịch sử hình thành của chiếc khẩu trang
Thời kỳ đầu
Dựa vào ghi chép của nhà thám hiểm người Italy là Marco Polo, vào thế kỷ 13, khi đến Trung Quốc, ông được một vị quan lớn nhà Nguyên mời dự yến tiệc, Marco Polo thấy những người hầu đeo quanh miệng một mảnh vải lụa mà theo giải thích là nhằm ngăn chặn không cho hơi thở của họ bám vào thức ăn. Tuy nhiên, loại “khẩu trang” này chỉ xuất hiện ở những nơi quyền quý và hoàn toàn không có mục đích phòng ngừa bệnh tật, tương tự như khẩu trang vải hiện nay.
Năm 1619, những bệnh nhân đầu tiên mắc bệnh dịch hạch ở Pháp rồi sau đó lan ra nhanh chóng sang các nước láng giềng như Italy, Tây Ban Nha, Đức,… thì do y học chưa hiểu biết tường tận về nguyên nhân gây bệnh cũng như cơ chế lây truyền, mà chỉ biết rằng nó phát xuất từ loài chuột đen.
Trong quá trình tham gia mổ tử thi để tìm hiểu nguyên nhân tử vong, bác sĩ Charles de Lorme làm việc tại bệnh viện St Louis, Paris, Pháp nhận thấy khá nhiều đồng nghiệp của ông bị lây nhiễm. Do y học chưa phát triển nên ông nghĩ mùi “tử khí” bốc ra từ xác chết là nguyên nhân, trong khi thực tế các bác sĩ bị nhiễm đều là những người đã tiếp xúc với xác chết ngay khi họ vừa chết được 1-2 tiếng đồng hồ, xác chưa bị phân hủy. Vì vậy, Charles de Lorme tin rằng cần phải cách ly mũi của bác sĩ khỏi mùi “tử khí”.
Sau nhiều ngày nghiên cứu, Charles de Lorme đã cho ra đời chiếc khẩu trang y tế đầu tiên của nhân loại. Nó làm bằng thanh gỗ thông vót mỏng, uốn thành hình cái mỏ của một con chim. Bên ngoài mỏ, Charles de Lorme bọc vải lanh rồi cho vào trong một số thảo mộc tỏa ra mùi thơm.
Khi tiến hành phẫu thuật tử thi, bác sĩ đeo khẩu trang “mỏ chim” cùng với một cặp kính, gọng làm bằng đồng rồi mặc một chiếc áo choàng dài tới gót chân, có mũ trùm kín đầu. Thế nhưng hiện tượng nhiễm bệnh vẫn không chấm dứt bởi lẽ mãi về sau này, người ta mới hiểu nguyên nhân lây truyền bệnh dịch hạch phát xuất từ Bọ chét chuột phương Đông, sống bằng cách hút máu động vật lẫn con người nên bệnh nhân chết, máu đông lại, có thể không còn nóng, bọ ché phải tìm một nguồn nuôi dưỡng khác. Bác sĩ mổ tử thi khi ấy chính là vật chủ bởi họ không mang găng tay, áo choàng, không ngăn được những con bọ chét này bám vào.
Thời kỳ phát triển
Đầu thế kỷ 17, bác sĩ Collin Mayer, làm việc tại bệnh viện St George, bang Alabama nghĩ ra một loại khẩu trang khác.
Lúc ấy, khá nhiều nô lệ da đen làm việc tại các đồn điền trồng cây bông vải trong bang mắc bệnh thủy đậu. Sau nhiều ngày theo dõi, bác sĩ Collin Mayer nhận thấy bệnh lây khi người bệnh ho, hắt hơi hoặc nói chuyện. Vì thế, ông may một cái túi bằng vải, có khoét 2 lỗ cho 2 con mắt. Mỗi khi thăm khám, ông trùm cái “khẩu trang” này vào đầu cùng với một cặp kính. Kết quả, bác sĩ Collin Mayer không bị nhiễm bệnh. Nhưng con số nô lệ da đên bị nhiễm vẫn tăng lên, mà nguyên nhân chính là bênh thủy đậu không chỉ lây qua đường hô hấp mà còn lây qua việc sử dụng chung những đồ dùng cá nhân, hoặc ăn uống chung với người bệnh.
Bước sang thế kỷ 19, năm 1827, bác sĩ người Tây Ban Nha Fermandez Carlos thiết kế chiếc khẩu trang dựa vào hình dáng của Hijab mà phụ nữ Hồi giáo dùng để che mặt.
Năm 1897, phát triển từ mẫu khẩu trang của bác sĩ Fermandez Carlos, nhà vi khuẩn học người Đức là Cart Flugge và bác sĩ phẫu thuật người Pháp Paul Berger thay miếng vải bằng miếng băng vết thương hình chữ nhật với 6 lớp. Nhưng giống như khẩu trang của bác sĩ Fermandez Carlos, loại khẩu trang này cũng có phần trên buộc qua đầu còn phần dưới may dính vào áo măng tô. Vì vậy, tác dụng ngăn ngừa nhiễm bệnh của nó không nhiều.
Năm 1899, chiếc khẩu trang tiến thêm một bước nhưng lần này đơn giản hơn: Mỗi khi khám bệnh, các bác sĩ người Mỹ dùng một miếng băng vết thương dài khoảng 40cm, ngang 10cm, chính giữa có thêm 4 gạc, cuốn quanh miệng và mũi rồi buộc lại phía sau gáy. Sử dụng xong, nó được mang đi giặt ngay nhưng hầu hết bác sĩ đều cho rằng nó khó thở nếu phải đeo nó trong những ca khám bệnh kéo dài.
Đến đại dịch cúm 1918, các bác sĩ Anh chế ra loại khẩu trang chỉ che kín phần miệng. Nó gồm một cuộn băng vết thương, buộc túm 2 đầu rồi buộc dây vòng qua gáy. Tất cả mọi người dù nhiễm bệnh hay không, mỗi khi ra đường đều phải đeo. Đó cũng là chiếc khẩu trang phổ thông đại chúng đầu tiên. Người Anh gọi nó một cách khôi hài là “xúc xích trắng” vì nhìn nó giống như xúc xích, nhất là nó lại nằm ngang miệng. Cho đến đầu năm 1919, cả Châu Âu và Hoa Kỳ hầu như đều sử dụng loại khẩu trang “xúc xích trắng” này.
Thế nhưng, chỉ trong một thời gian ngắn các bác sĩ Hoa Kỳ nhận ra rằng mỗi khi muốn ho hay khạc nhổ, người ta kéo cái “xúc xích” ra khỏi miệng và như vậy, nguy cơ lệnh truyền vẫn hiện hữu. Bên cạnh đó, sự hắt hơi cũng có thể phát tán mầm bệnh, nên Hoa Kỳ cho ra đời chiếc khẩu trang chỉ che kín phần mũi. Khi đó, chiếc khẩu trang được may bằng hai lớp vải cotton, còn màu sắc thì tùy theo ý thích của người dùng. Nó được phủ một lớp keo ở mặt ngoài để tạo hình chóp nón và có độ cứng. Nó có 4 sợi dây ở hai bên để đeo vòng qua tai. Vì thế, cứ vài ngày 1 lần, họ gom tất cả khẩu trang của những người trong gia đình rồi mang ra những cửa hàng chuyên hồ khẩu trang, chưa kể nếu gặp nước hoặc đi ngoài mưa, keo tan ra gây dính, nhớp, bụi bẩm bám vào lớp keo ướt.
Thời kỳ hoàn thiện
Năm 1930, khi ngành nhựa phát triển, khẩu trang được làm bằng nhựa trong suốt xuất hiện. Suốt một thập niên, ngoài những người ở ngành y thì loại khẩu trang này rất phổ biến trong giới đi xe phân khối lớn. Nó vừa ngăn được bụi, lại vừa không làm giảm tầm nhìn, dễ dàng chùi rửa nhưng người đeo sẽ thấy khó thở vì nó quá kín. Chiếc khẩu trang là một lớp nhựa rất mỏng, nên dễ bị biến dạng khi đeo nên nó còn có một chiếc đai kim loại rằng quanh khiến nó khá nặng nề.
Để cải tiến, các nhà chế tạo để hở phần dưới cằm cho không khí dễ dàng lưu thông nhưng nó lại hạn chế việc ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập qua đường hô hấp.
Năm 1947, vải không dệt ra đời. Từ loại vải này, chiếc khẩu trang y tế có cấu tạo và hình dạng như ngày nay xuất hiện.
2. Khẩu trang y tế là gì?
Khẩu trang y tế là một loại mặt nạ được sử dụng để che kín vùng mặt (thường là mũi, miệng) với mục đích chính là ngăn ngừa, bảo vệ đường hô hấp của người đeo, không bị lây nhiễm các loại vi khuẩn, dịch bệnh, bụi bặm.
Khẩu trang y tế không những được sử dụng ở các cơ sở y tế, cung cấp cho các bác sĩ, y tá, điều dưỡng viên, giám định pháp y, đặc biệt là những người làm công việc phẫu thuật, … mà còn được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng, xã hội.
Chỉ định chung trong việc sử dụng khẩu trang phẫu thuật tiêu chuẩn gồm:
– Khi có tình trạng văng, bắn, phun các chất dịch cơ thể
– Khi ở gần các chất tiết từ khoảng cách 1.5, trở xuống
– Khi làm việc trong môi trường vô trùng, để tránh lây nhiễm cho môi trường.
Chiếc khẩu trang thường được làm từ hai vật liệu chính là vải và vải không dệt. Chiếc khẩu trang y tế được sử dụng phổ biến nhất, là loại dùng một lần, được làm từ vải không dệt với thành phần chính là polypropylen, an toàn cho sức khỏe.
3. Cấu tạo của chiếc khẩu trang y tế
Với thiết kế khác biệt so với những chiếc khẩu trang vải bình thường, khẩu trang y tế được thiết kế gồm 2-5 lớp:
– Lớp ngoài cùng và trong cùng là lớp vải không dệt, cấu tạo từ Polupropylene có nhiều đặc tính hữu ích như thấm hút, mềm mại, thoáng khí, đàn hồi, bền chắc và không gây dị ứng cho cơ thể người.
– Lớp chính giữa cấu tạo từ vải lọc kháng khuẩn cao cấp (màng PE), không thấm nước, khiến bề mặt luôn khô thoáng. Loại vải lọc này có công dụng đặc biệt làm lọc bụi bẩn, vi khuẩn và các bệnh nguy hiểm lây qua đường hô hấp,…
– Nếu là khẩu trang y tế than hoạt tính thì lớp giấy lọc than hoạt tính còn hấp thụ khí, hơi độc trong không khí, ngăn chặn bụi bẩn hiệu quả, đảm bảo an toàn cho hệ hô hấp.
4. Lợi ích của việc đeo khẩu trang y tế
Với cấu tạo nhiều lớp như trên thì lợi ích của khẩu trang y tế là không nhỏ trong việc lọc bụi bẩn, vi khuẩn, ngăn cản các hạt chất lỏng văng ra khi hắt hơi, ho, thở mạnh,…phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả.
Với trường hợp Covid 19 (kích thước từ 150-200 nano mét) hay virus cúm Influenza A (kích thước 80-120 nano mét) cư trú trong nước bọt thì việc dùng khẩu trang ý tế đúng cách sẽ ngăn chặn các giọt nước bọt có chứa virus văng ra từ người bệnh qua việc hắt hơi hay ho một cách hiệu quả. Vì một nghiên cứu năm 2013 cho thấy giọt nước bọt lớn có kích thước từ khoảng 75-360 micro mét (1micro mét = 1.000 nano mét), do đó, có thể dễ dàng bị giữ lại bởi các loại khẩu trang ý tế thông thường có khả năng lọc tốt.
Với thiết kế đơn giản, gọn nhẹ, nhiều kích cỡ, khẩu trang y tế rất dễ đeo/tháo, sử dụng một lần rồi nên rất thuận tiện cho người sử dụng, ở mọi lứa tuổi giúp bảo vệ được các bệnh lây nhiễm qua đường hô hấp và da.
5. Cách chọn khẩu trang y tế phù hợp
Rõ ràng sức khỏe là điều quan trọng nhất mà ai cũng cần tới, mà khẩu trang y tế là giải pháp tốt giúp bảo vệ bản thân trước ô nhiễm và dịch bệnh.
Một chiếc khẩu trang y tế tốt cần có từ 2 lớp trở lên, có thanh nhựa dẻo hoặc kim loại để cố định mũi, dây đeo chắc chắn, thiết kế che phủ từ mũi đến cằm, ôm sát mặt, ưu tiên loại có chất liệu vải thông thoáng, dễ hít thở, nhất là loại chứa than hoạt tính có khả năng kháng khuẩn cực tốt.
Muốn kiểm tra khẩu trang y tế đạt tiêu chuẩn, người dùng có thể kiểm tra bằng cách nhúng vào nước. Theo tiêu chuẩn TCVN 8389-1:2020 thì những chiếc khẩu trang y tế tốt, chất lượng phải là loại khẩu trang không thấm nước. Nếu người dùng mua phải loại khẩu trang thấm nước, chứng tỏ hàng kém chất lượng, không thể mang lại hiệu quả bảo vệ sức khỏe, không nên sử dụng
Vì vậy, điều cần thiết là nên mua khẩu trang y tế từ những thương hiệu nổi tiếng, uy tín, có nguồn gốc, lô sản xuất, ngày sản xuất, hạn sử dụng, các chứng nhận đã đạt được in kèm trên sản phẩm rõ ràng.
Có thể mua ở các cửa hàng phân phối chính hãng, nhà thuốc, siêu thị và không nên mua ở lề đường, các quán tạp hóa, hàng nước,…
Hãy là người tiêu dùng thông minh
6. Hướng dẫn cách đeo khẩu trang y tế đúng cách
Kể từ khi dịch bệnh Covid 19 bùng phát, khẩu trang đã trở thành đề tài nóng. Việc mua được một chiếc khẩu trang đạt tiêu chuẩn đã có, việc mang khẩu trang thế nào cho đúng cách lại càng quan trọng….
Thực tế, nhiều người mang khẩu trang nhưng vẫn có nguy cơ mắc các bệnh dịch qua đường hô hấp, qua tiếp xúc tay chân chỉ vì không dùng khẩu trang đúng cách.
Để người dân có thể phòng bệnh tốt nhất, Bộ y tế khuyến cáo cách đeo khẩu trang đạt tiêu chuẩn:
– Đeo mặt xanh ra ngoài, mặt trắng vào trong
Đây là cách đeo cơ bản nhất mà bạn cần phải biết khi sử dụng khẩu trang y tế một lần. Vì mặt xanh được sản xuất với tính thấm nước sẽ không thấm vào trong và mặt trắng có tính hút ẩm, giúp bạn dễ thở hơn khi đeo khẩu trang nhưng lại được ngăn không có dịch thoát ra ngoài nhờ lớp chính giữa.
– Che cả mũi, miệng và cằm
Cách đeo khẩu trang y tế đẹp và đúng tiêu chuẩn là việc bạn sử dụng che kín cả mũi, miệng và cằm. Khi đeo, bạn cần vuốt cho phần gọng sắt/ nhựa sát vào sống mũi. Kiểu đeo này cũng giúp người mang kính không bị hơi thở làm mờ kính, gây cản trở tầm nhìn.
– Chỉ cầm vào đây khẩu trang
Trong quá trình sử dụng khẩu trang, vi khuẩn có thể đã bám trên lớp bề mặt ngoài. Do đó, khi sử dụng, chỉ sử dụng tay để cầm vào phần dây.
– Thường xuyên rửa tay sạch trước khi đep và sau khi tháo khẩu trang
Để khẩu trang y tế mang lại hiệu quả trong việc phòng tránh dịch bệnh, bạn phải duy trì thói quen rửa tay thường xuyên nhất là trước khi đeo khẩu trang và sau khi tháo khẩu trang.
– Chỉ sử dụng một lần
Hiện nay, khẩu trang y tế phổ biến thường được sử dụng một lần. Sau khi sử dụng, cần phải được bỏ vào thùng rác có nắp đậy, tránh lây lan virus, vi khuẩn.
– Tránh sờ tay trên bề mặt khẩu trang
Thói quen sờ tay trên bề mặt khẩu trang, cầm khẩu trang tháo ra, đặc biệt thói quen vo khẩu trang lại có thể là con đường lây lan virus nhanh chóng, đơn giản mà thường không ngờ tới. Khi có tiếp xúc này cần rửa tay với xà phòng sát khuẩn.
7. Một số khuyến cáo
Ở Việt Nam, có không ít loại khẩu trang được bày bán ở các vỉa hè được may từ nhiều loại vài mốc meo, mút phế liệu và chưa được xử lý giặt tẩy, chứa vô số vi khuẩn đe dọa sức khỏe người sử dụng. Nhiều nơi, khẩu trang có nguyên liệu là rác thải bằng vải và không đạt chất lượng. Đặc biệt, đa số các loại khẩu trang bày bán hiện nay đều có thiết kế không ôm sát phần mũi, miệng người đeo, tạo ra những kẽ hở để vi khuẩn xâm nhập. Vì thế, những chiếc khẩu trang này chỉ tránh được bụi phần nào chứ không tránh được các loại vi khuẩn.
Khi mang khẩu trang phải kín cả mũi và miệng, nếu không bụi, hóa chất, vi sinh vật không đi qua bộ phận lọc mà len theo kẽ hở và thẳng mũi và miệng, chạy sâu vào phổi.
Đối với loại khẩu trang đeo sát mũi thì bụi, hóa chất và vi sinh vật vẫn có khả năng thâm nhập và cơ thể qua đường miệng, cho dù mức độ thấp hơn.
Nhiều người có thói quen mua khẩu trang dọc được rồi sử dụng ngay hoặc treo trên xe, bỏ trong túi áo quần,… khiến khẩu trang bị nhiễm thêm vi sinh vật gây hại do bụi, ẩm mốc, mùi hôi,…
Không loại trừ trường hợp bị tái viêm mũi do sử dụng khẩu trang đã nhiễm khuẩn trước đó.
Do vậy, đối với khẩu trang làm bằng vải thông thường phải giặt sạch trước khi sử dụng. Khi đã sử dụng thì nên giặt sạch mỗi ngày.